↑ Mọi tàu chiến Đức đều đặt hàng dưới cái tên tạm thời: những bổ sung mới cho hạm đội được đặt một ký tự, trong khi những chiếc dự định để thay thế một tàu chiến cũ được đặt tên "Ersatz (tên tàu bị thay thế)"; khi hoàn tất, nó sẽ mang cái tên dự định dành cho nó. Ví dụ trong trường hợp này, "Ersatz Odin" dự định để thay thế cho SMS Odin, và khi con tàu hoàn tất, nó sẽ được đặt tên Prinzregent Luitpold. Xem: Gröner, trang 56.
↑ Mục đích chính của việc không hủy bỏ chuyến đi là nhằm tỏ một thái độ bình thường của nước Đức. Thủ tướng Theobald von Bethmann-Hollweg liên tục từ chối đề nghị của Đô đốc Friedrich von Ingenohl, tư lệnh hạm đội, và của Kaiser Wilhelm II nhằm đưa hạm đội quay trở về Đức sớm hơn. Kaiser cuối cùng phải phủ quyết Bethmann-Hollweg sau khi ông biết về Tối hậu thư tháng 7. Xem: Massie, (2003) trang 12-14
↑ La bàn có thể chia thành 32 point, mỗi point tương ứng với 11,25°. Bẻ lái 2 point sang mạn trái sẽ làm đổi hướng con tàu 22,5 độ.
↑ Các chiếc Derfflinger và Seydlitz đã bị hư hại nặng trong trận Jutland, còn Lützow bị đánh chìm. Xem: Gröner, trang 56-57
↑ Đã có sự tranh luận rằng liệu von Reuter có biết là thỏa thuận đã triển hạn hay không. Đô đốc Anh Sydney Fremantle cho rằng ông đã thông báo điều này cho von Reuter vào tối ngày 20 tháng 6, nhưng von Reuter xác định ông không biết gì về sự tiến triển trong đàm phán. Về tuyên bố của Fremantle, xem Bennett, trang 307; về phát biểu của von Reuter, xem Herwig, trang 256.